1. Quy định của pháp luật về người bào chữa
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Người bào chữa tham gia với tư cách tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Người bào chữa có thể là: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Thủ tục đăng ký bào chữa: Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa. Người bào chữa khi tham gia bào chữa phải xuất trình các giấy tờ như Thẻ luật sư đối với Luật sư, Thẻ trợ giúp viên pháp lý đối với trợ giúp viên pháp lý …
Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng: Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Đây là điểm mới của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, theo đó người bào chữa không chỉ tham gia bào chữa từ khi khởi tố bị can mà còn tham gia từ trước khi khởi tố vụ án. Luật chỉ quy định thời điểm bắt đầu tham gia bào chữa, thời điểm sớm nhất là khi bị bắt, tạm giữ người (khi chưa khởi tố vụ án). Quy định này là cơ sở để đảm bảo quyền tự do cá nhân, tự do thân thể được bảo vệ tốt nhất và sớm nhất khi họ trở thành người bị buộc tội.
Đây là cơ sở pháp luật để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ và tạo điều kiện để họ có người bào chữa tham gia (trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia).
Xuất phát từ quy định này mà trong quá trình tố tụng, người bị buộc tội có thể thực hiện quyền này bất cứ tại thời điểm nào hoặc giai đoạn nào để người bào chữa giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết các vụ án hình sự đã xảy ra một số trường hợp chưa thống nhất trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
2. Chủ thể có quyền từ chối, thay đổi người bào chữa
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ hơn những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa là: người bị buộc tội, người đại diện của người bị buộc tội, người thân thích của người bị buộc tội. Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
3. Thủ tục thay đổi hoặc từ chối người bào chữa
Thủ tục đề nghị thay đổi hoặc từ chối người bào chữa cũng được quy định rõ ràng trong khoản 2 và khoản 3 Điều 77 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để khắc phục trường hợp người thân thích của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam mới thường bị từ chối không rõ lý do. Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối. Trong trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản ghi nhận việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Bên cạnh đó, trình tự thủ tục trong việc tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu nhờ người bào chữa của người đại diện hoặc người thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư số 46/2019/TT – BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an.
Trường hợp chỉ định người bào chữa:
Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.