1. Từ 01/07/2021, ở dưới 30 ngày không phải đăng ký tạm trú
- Từ ngày 01/7/2021, khi Luật Cư trú 2020 có hiệu lực, nhiều điều kiện, thủ tục xoay quanh vấn đề đăng ký tạm trú, thường trú có sự thay đổi.
- Hiện nay, Luật Cư trú 2006 yêu cầu cá nhân đang sinh sống, làm việc, lao động, học tập tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn nhưng không thuộc trường hợp được đăng ký thường trú tại địa phương đó thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đến phải đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường, thị trấn. Nghĩa là cứ đến ở nơi khác ngoài nơi đăng ký thường trú thì phải đi đăng ký tạm trú. Nếu không đi đăng ký tạm trú sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 100.000 – 300.000 đồng được quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 167/2013/NĐ – CP.
- Quy định này hiện nay khiến nhiều người không biết mình thuộc đối tượng đăng ký tạm trú hay khai báo lưu trú. Bởi theo khoản 1 Điều 31 Luật cư trú 2006 quy định: “Lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú”
- Để phân biệt rõ ràng 02 khái niệm này, khoản 1 Điều 27 Luật Cư trú 2020 đã sửa đổi điều kiện đăng ký tạm trú như sau: “Công dân đến sinh sống tại chỗ ở hợp pháp ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đã đăng ký thường trú để lao động, học tập hoặc vì mục đích khác từ 30 ngày trở lên thì phải thực hiện đăng ký tạm trú”
- Như vậy, từ ngày 01/7/2021, khi Luật Cư trú mới có hiệu lực, người dân đến nơi khác ở dưới 30 ngày không cần đăng ký tạm trú (vẫn phải khai báo lưu trú).
2. Không cấp mới sổ tạm trú từ 01/7/2021
- Theo khoản 4 Điều 30 Luật Cư trú năm 2006, sửa đổi năm 2013 quy định: “Trưởng Công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này phải cấp sổ tạm trú theo mẫu quy định của Bộ Công an.
Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và có thời hạn tối đa là hai mươi bốn tháng. Trong thời hạn ba mươi ngày trước ngày hết thời hạn tạm trú, công dân đến cơ quan Công an nơi cấp sổ tạm trú để làm thủ tục gia hạn.”
- Từ đó, hiện nay, người dân khi đã đăng ký tạm trú sẽ được Trưởng công an cấp xã, phường, thị trấn cấp sổ tạm trú. Tuy nhiên, Luật Cư trú năm 2006, sửa đổi năm 2013 chỉ có hiệu lực đến hết ngày 30/6/2021. Sau đó sẽ áp dụng các quy định mới tại Luật Cư trú năm 2020.
- Tại khoản 3 Điều 38 Luật này nêu rõ:” Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú”
- Đồng nghĩa với đó, từ 01/7/2021, nếu tiến hành đăng ký tạm trú thì người dân sẽ không được cấp Sổ tạm trú nữa mà cơ quan đăng ký cư trú sẽ cập nhật thông tin của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú.
3. Sắp tới, người dân có thể đăng ký tạm trú qua mạng
- Tại Quyết định số 406/QĐ-Ttg ban hành ngày 22/3/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Danh mục dịch vụ công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2021.
- Trong đó, đáng chú ý phải kể đến nhóm dịch vụ công trực tuyến được tích hợp trên Cổng Dịch vụ Công Quốc gia nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư.
- Theo thời hạn mà Quyết định này đề ra, dịch vụ đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, khai báo tạm vắng, thông báo lưu trú sẽ tích hợp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia trong quý III năm 2021.
- Như vậy sắp tới đây, nếu có nhu cầu chuyển đến nơi khác sinh sống để học tập hoặc làm việc, người có thể thực hiện thủ tục đăng ký tạm trú qua mạng, giúp tiết kiệm thời gian và công sức so với việc đến trực tiếp đăng ký tạm trú.
4. 5 địa điểm không được đăng ký tạm trú mới
- Căn cứ khoản 3 Điều 27 Luật Cư trú 2020, người dân không được đăng ký tạm trú mới tại 5 địa điểm được quy định tại Điều 23 Luật này, bao gồm:
1/ Chỗ ở nằm trong địa điểm cấm, khu vực cấm xây dựng hoặc lấn, chiếm hành lang bảo vệ quốc phòng, an ninh, giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng, mốc giới bảo vệ công trình hạ tầng kỹ thuật, di tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng, khu vực đã được cảnh báo về nguy cơ lở đất, lũ quét, lũ ống và khu vực bảo vệ công trình khác theo quy định của pháp luật.
2/ Chỗ ở mà toàn bộ diện tích nhà ở nằm trên đất lấn, chiếm trái phép hoặc chỗ ở xây dựng trên diện tích đất không đủ điều kiện xây dựng theo quy định của pháp luật
3/ Chỗ ở đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chỗ ở là nhà ở mà một phần hoặc toàn bộ diện tích nhà ở đang có tranh chấp, khiếu nại liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng nhưng chưa được giải quyết theo quy định của pháp luật.
4/ Chỗ ở bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; phương tiện được dùng làm nơi đăng ký thường trú đã bị xóa đăng ký phương tiện hoặc không có giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật
5/ Chỗ ở là nhà ở đã có quyết định phá dỡ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây là một quy định hoàn toàn mới mà trước đó Luật cư trú 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013 chưa hề quy định.
5. Thêm trường hợp được nhập khẩu về nhà người thân
- Theo Luật Cư trú 2006, sửa đổi năm 2013, việc nhập hộ khẩu về các tỉnh không cần đến mối quan hệ người thân. Cứ có chỗ ở hợp pháp và được đồng ý cho thuê, mượn, ở nhờ thì được nhập khẩu.
- Riêng đối với thành phố trực thuộc Trung ương phát sinh trường hợp nhập hộ khẩu về nhà người thân nếu được người có sổ hộ khẩu đồng ý và thuộc một số trường hợp nhất định.
- Còn theo khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú 2020, việc nhập hộ khẩu về nhà người thân được thực hiện đối với tất cả tỉnh, thành trong các trường hợp sau nếu chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý:
- Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con;
- Người cao tuổi về ở với anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột; người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người không có khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi về ở với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột, người giám hộ;
- Người chưa thành niên được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hoặc không còn cha, mẹ về ở với cụ nội, cụ ngoại, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; người chưa thành niên về ở với người giám hộ.
- Như vậy, so với việc nhập hộ khẩu về nhà người thân trước đây, Luật Cư trú mới đã bổ sung thêm một số trường hợp được nhập hộ khẩu về nhà người thân như: Người cao tuổi về ở với cháu ruột; người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người không có khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức về ở với ông, bà nội ngoại; Người chưa thành niên được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về ở với người thân…
- Ngoài ra, Luật mới cũng thay đổi một số đối tượng về ở với người thân. Chẳng hạn:
· Thay vì người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ thôi việc về ở với người thân. thì nay chỉ quy định một đối tượng chung là người cao tuổi nghĩa là từ đủ 60 tuổi trở lên.
· Thay vì người khuyết tật nói chung thì chỉ còn người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng về ở với người thân.
· Đối tượng người thành niên độc thân về ở với ông, bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột cũng đã bị bãi bỏ.