1. Yêu cầu giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của NLĐ
Theo Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Lao động 2019 quy định các hành vi bị nghiêm cấm khi doanh nghiệp ký và thực hiện hợp đồng lao động, trong đó:
“Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.”
Do đó, yêu cầu giữ bằng đại học, chứng chỉ hành nghề là vi phạm quy định pháp luật.
Theo điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 20 – 25 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi sau đây:
“Buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động;”
Ngoài ra, NSDLĐ phải buộc trả lại bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ đã giữ của người lao động đối với hành vi vi phạm quy định.
2. Yêu cầu cọc tiền cho việc thực hiện hợp đồng lao động
Khoản 2 Điều 17 Bộ luật Lao động 2019 cấm hành vi sau:
“Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.”
Nếu yêu cầu người lao động cọc tiền để đảm bảo NLĐ không tự ý nghỉ việc thì người sử dụng lao động đã vi phạm quy định của pháp luật.
Theo điểm c khoản 2 Điều 8 Nghị định 28/2020/NĐ-CP phạt tiền từ 20 - 25 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi:
“Buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động;”
3. Thời gian thử việc nhiều hơn 2 tháng
Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật Lao động 2019, doanh nghiệp chỉ được yêu cầu thử việc một lần với một công việc, đồng thời phải đảm bảo thời gian thử việc:
- Không quá 180 ngày: Công việc của người quản lý doanh nghiệp.
- Không quá 60 ngày: Công việc cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên.
- Không quá 30 ngày: Công việc cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ.
- Không quá 06 ngày làm việc: Công việc khác.
Theo quy định trên, yêu cầu thử việc tối đa 03 tháng chỉ áp dụng với công việc của người quản lý doanh nghiệp. Còn với người lao động thông thường thì thời gian thử việc tối đa chỉ là 02 tháng.
Theo điểm b khoản 2 Điều 9 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, nếu yêu cầu thử việc dài hơn thời gian nói trên, NSDLĐ sẽ bị phạt từ 02 - 05 triệu đồng.
4. Trả lương thử việc dưới 85% lương chính thức
Theo Bộ luật Lao động 2019 quy định tiền lương thử việc như sau:
“Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.”
Trường hợp NSDLĐ trả lương thử việc dưới 85% lương chính thức, doanh nghiệp có thể bị phạt tiền từ 02 - 05 triệu đồng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 9 Nghị định 28/2020/NĐ-CP.
Đồng thời, doanh nghiệp cũng buộc phải trả đủ tiền lương cho người lao động theo mức 85% lương chính thức.
5. Yêu cầu cam kết thời hạn làm việc
Theo Bộ luật Lao động 2019, NLĐ khi ký hợp đồng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định. Người lao động chỉ phải bồi thường nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Tuy nhiên, nếu trong quá trình làm việc, để nâng cao tay nghề cho người lao động, người sử dụng lao động có thể cử người lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài trên cơ sở kinh phí do người sử dụng lao động chi trả.
Khi đó, các bên sẽ tiến hành ký hợp đồng đào tạo nghề. Theo khoản 2 Điều 62 Bộ luật Lao động 2019, hợp đồng đào tạo nghề phải đảm bảo các nội dung chủ yếu sau:
- Nghề đào tạo;
- Địa điểm, thời gian và tiền lương trong thời gian đào tạo;
- Thời hạn cam kết phải làm việc sau khi được đào tạo;
- Chi phí đào tạo và trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo;
- Trách nhiệm của người sử dụng lao động;
- Trách nhiệm của người lao động.
Chính vì vậy, nếu không cử người lao động đi học nghề, đào tạo nghề, doanh nghiệp không được yêu người lao động ký cam kết làm việc dài hạn.
6. Yêu cầu lao động nữ ký cam kết không mang thai
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp thường yêu cầu lao động nữ ký cam kết không mang thai, sinh con trong những năm đầu làm việc.
Tuy nhiên, việc này đã vi phạm đến quyền thực hiện kế hoạch hóa gia đình của công dân tại Điều 10 của Pháp lệnh dân số 2003, sửa đổi bởi Pháp lệnh sửa đổi điều 10 Pháp lệnh dân số năm 2008 có quy định rằng:
“Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản:
1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con.”
Theo quy định, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân có quyền tự quyết định thời gian và khoảng cách sinh con.
Việc NSDLĐ yêu cầu lao động nữ cam kết không mang thai đã liên quan đến quyền tự quyết định thời gian và khoảng cách sinh con. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Dù người lao động có đồng ý ký vào bản cam kết không mang thai khi làm việc thì văn bản này cũng không có giá trị pháp lý.
Căn cứ pháp lý:
Bộ luật Lao động 2019
Nghị định 28/2020/NĐ-CP
Pháp lệnh dân số 2003
Pháp lệnh sửa đổi điều 10 Pháp lệnh dân số năm 2008